EU – Việt Nam: Sự hợp tác toàn diện hơn 30 năm vì sự thịnh vượng và phúc lợi của EU và công dân Việt Nam

Sau hơn 30 năm hợp tác, Việt Nam – một đối tác phát triển của EU ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương – đang trở thành ngọn hải đăng trong khu vực với khả năng kiểm soát lạm phát và duy trì tăng trưởng kinh tế ở mức cao bất chấp tình hình quốc tế còn nhiều sóng gió.
Hợp tác giữa EU – Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực thương mại và phát triển bền vững, đã tạo điều kiện thuận lợi cho người dân nâng cao chất lượng cuộc sống. Nó cũng đã thúc đẩy đối thoại để ứng phó với những thách thức và khủng hoảng toàn cầu.
Sự ủng hộ mạnh mẽ của EU sẽ tiếp tục là động lực quan trọng để phát triển quan hệ song phương hơn nữa, với EU là đối tác hàng đầu của các nước Đông Nam Á (ASEAN) và rộng hơn là khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương.
Quyết tâm trở thành ngọn hải đăng cho sự phát triển kinh tế, xã hội trong khu vực
Mặc dù một cuộc suy thoái toàn cầu tiềm ẩn đang rình rập trên toàn thế giới, các tổ chức tài chính quốc tế đã đưa ra những dự báo mạnh mẽ cho nền kinh tế Việt Nam. Báo cáo gần đây của Ngân hàng Thế giới công bố vào tháng 8, dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam sẽ tăng đáng kể từ 2,6% năm 2021 lên 7,5% năm 2022, đồng thời giữ lạm phát ổn định ở mức 3,8%. Quỹ Tiền tệ Quốc tế dự báo tăng trưởng GDP là 6,7% vào năm 2023, cao hơn đáng kể mức trung bình của khu vực và toàn cầu.
Gần đây nhất, hãng xếp hạng tín nhiệm Moody’s đã nâng xếp hạng của Việt Nam từ Ba3 lên Ba2, với triển vọng ổn định. Nikkei (Trung bình chứng khoán Nikkei 225 của Nhật Bản) đánh giá, chỉ số phục hồi COVID-19 của Việt Nam đứng thứ hai thế giới, tăng 12 bậc.
Theo các nhà phân tích kinh tế quốc tế, những kết quả nổi bật của Việt Nam là do Chính phủ có chính sách điều hành linh hoạt như hỗ trợ lãi suất thấp, duy trì tăng trưởng tín dụng, Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội. Điểm hội tụ của các chính sách này là sự kết hợp giữa yếu tố thị trường, công cụ quản lý nhà nước, sự giám sát chặt chẽ của Quốc hội Việt Nam, cũng như sự tích cực phản hồi, đóng góp ý kiến của Chính phủ Việt Nam đối với các phản hồi, ý kiến đóng góp của người lao động và cộng đồng doanh nghiệp, trong đó có các doanh nghiệp EU.
Ngoài ra, việc Việt Nam sớm thực hiện Chiến lược Sống và Làm việc trong đại dịch COVID-19 và việc đẩy nhanh tỷ lệ bao phủ vắc xin COVID-19 đã khôi phục các hoạt động kinh tế – xã hội trong và ngoài nước cũng như ổn định thu nhập của người lao động và sinh kế của người dân.
Vừa qua, học sinh Việt Nam đã có buổi khai giảng năm học trực tiếp đầu tiên sau hai năm đại dịch. Ngành dịch vụ, đặc biệt là du lịch và spa, đã được phục hồi như trước đại dịch. Ngành du lịch đã phải hoạt động với công suất cao trong mùa hè vừa qua để đáp ứng nhu cầu của du khách trong và ngoài nước. Không khí phấn khởi, lạc quan xuất hiện đã tạo động lực phát triển mới cho đất nước.
Tuy nhiên, khó khăn vẫn còn. Việt Nam là thành viên của 15 Hiệp định Thương mại tự do và tham gia nhiều tổ chức quốc tế. Là một nền kinh tế có độ mở cao, Việt Nam đang chịu tác động trực tiếp của các vấn đề toàn cầu như nguy cơ lạm phát, suy thoái kinh tế, khủng hoảng chuỗi cung ứng, khan hiếm hàng hóa và lương thực, biến động giá năng lượng và xung đột khu vực.
Điều này có thể được thêm vào các vấn đề môi trường, chẳng hạn như tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, đặc biệt là ở khu vực hạ lưu sông Mekong.
Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Quốc gia cho biết, mực nước các trạm trên sông Cửu Long xuống dần và ở mức dưới trung bình. Để giảm thiểu tác động tiêu cực của nhiễm mặn đến đời sống con người ở ĐBSCL, chính quyền các địa phương đã khẩn trương xây dựng và đưa vào khai thác các công trình thủy lợi khổng lồ.

Các bước phát triển của EU và Việt Nam
Quan hệ EU – Việt Nam không ngừng được củng cố trong suốt hơn 30 năm và trở thành hình mẫu cho quan hệ đối tác phát triển và hợp tác khu vực và quốc tế. EU là một trong những đối tác thương mại và đầu tư hàng đầu của Việt Nam.
Sau khi Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam – Liên minh Châu Âu (EVFTA) được thực thi vào năm 2019, thương mại song phương giữa hai bên đã tăng lên rõ rệt. Tổng kim ngạch năm 2021 đạt 57 tỷ USD, tăng 14,5% so với năm 2020.
6 tháng đầu năm 2022 đạt 31,7 tỷ USD, tăng 14,6% so với cùng kỳ năm trước. Nhờ hiệp định, người dân Việt Nam có thể tiếp cận hàng hóa chất lượng cao từ EU với giá cả hợp lý hơn. Hàng hóa và sản phẩm của Việt Nam không ngừng được cải tiến và nâng cao để đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn của EU.
Trong khi đó, các cam kết trong EVFTA, đặc biệt về Thương mại và Phát triển bền vững, đang góp phần thay đổi văn hóa sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam trong việc đảm bảo chất lượng cuộc sống, quyền con người và lợi ích của người lao động theo hướng tiêu chuẩn cao trong thế hệ tự do thương mại mới của EU.
Nhóm Tư vấn Nội địa Việt Nam (DAG) được thành lập và nhanh chóng kiện toàn tổ chức, mở rộng số lượng thành viên. Hiện tại, DAG Việt Nam đã tập hợp đầy đủ các tổ chức nghiên cứu và hiệp hội ngành nghề sử dụng nhiều lao động trong nước. Ngoài ra, DAG Việt Nam còn có các thành viên là các tổ chức phi chính phủ trong lĩnh vực bảo vệ thiên nhiên và môi trường.
Những đóng góp của các nhóm DAG được kỳ vọng sẽ đưa hợp tác thương mại Việt Nam – EU đi đúng hướng, đảm bảo lợi ích hợp pháp của người dân và doanh nghiệp hai bên, cũng như đóng góp vào sự phát triển chung của thế giới.
Việt Nam hướng tới mục tiêu tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho các doanh nghiệp và tập đoàn quốc tế. Theo số liệu của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), đầu tư cơ sở hạ tầng ở cả khu vực nhà nước và tư nhân của Việt Nam đạt xấp xỉ 5,7% GDP trong những năm gần đây, cao nhất ở Đông Nam Á và đứng thứ hai ở Châu Á sau Trung Quốc.
Mới đây, Chính phủ Việt Nam đã lên kế hoạch sử dụng 50% ngân sách của Dự án phục hồi kinh tế sau COVID-19 để phát triển hạ tầng giao thông (hơn 40.000 tỷ đồng, tương đương 1,8 tỷ USD), ưu tiên mở rộng nhanh nhất hai miền Bắc – Nam. mạng lưới đường cao tốc kết nối cảng biển, sân bay với các trung tâm công nghiệp và logistic trên cả nước. Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc Nam cũng đang được lên kế hoạch xây dựng.
Quy mô và tốc độ triển khai các dự án cơ sở hạ tầng đã tạo ra không gian phát triển mới cho các vùng nông thôn, miền núi khó khăn ở Việt Nam. Chúng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc lưu thông nông sản, cải thiện sinh kế của nông dân, thu hút đầu tư kinh doanh vào các nhà máy, khu công nghiệp sản xuất, chế biến, tạo việc làm mới. Hình ảnh nông nghiệp, nông thôn Việt Nam đang từng bước đổi mới.
Càng ngày, các công ty châu Âu càng coi Việt Nam là một trung tâm đầu tư kinh doanh đầy triển vọng với nhiều dự án chất lượng và bền vững. Số liệu thống kê đầu tư gần đây cho thấy xu hướng tăng đầu tư từ một số nước EU vào Việt Nam như Hà Lan (+ 26%), Đan Mạch (+ 240%), Thụy Điển (+ 63%), Cộng hòa Ireland (+ 235%), và Bỉ (+ 284%).
Đầu tư tài chính của EU tập trung vào các công ty công nghệ cao và có xu hướng mở rộng sang các dịch vụ như bưu chính, tài chính, các lĩnh vực công nghệ sạch, nông nghiệp công nghệ cao, sản xuất thực phẩm và dược phẩm. Theo đánh giá của văn phòng Eurocharm tại Việt Nam, Chỉ số Khí hậu Kinh doanh (BCI) trong quý II / 2022 đạt 68,8 điểm, cao hơn 7,6 điểm so với quý IV / 2021. Nhiều chỉ số được cải thiện, chẳng hạn như mức độ hài lòng của chủ doanh nghiệp đối với Nỗ lực thu hút và duy trì vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Việt Nam. 76% số người được hỏi kỳ vọng các công ty của họ sẽ tăng vốn FDI vào Việt Nam trước khi kết thúc quý III.
Đảm bảo công bằng, hài hòa lợi ích cho doanh nghiệp và nâng cao thu nhập, chất lượng cuộc sống cho hàng trăm nghìn người lao động tại các nhà máy, khu chế xuất của các doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam sẽ tiếp tục là thước đo cho các cam kết của EU với tư cách là đối tác kinh doanh hợp tác.
Tại hội nghị Vượt qua thách thức, nắm bắt cơ hội, hợp tác phát triển do Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì ngày 17/9, Eurocham đánh giá, xung đột địa chính trị cũng như những thay đổi trong chính sách của các nước láng giềng là cơ hội để Việt Nam bứt phá. Việt Nam cần mở cửa mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn để tạo ấn tượng với các nhà đầu tư chất lượng cao và đảm bảo vị thế cao hơn trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Các nhà đầu tư châu Âu đã, đang và sẽ tiếp tục cam kết cùng Việt Nam thực hiện mục tiêu này.
Cam kết mạnh mẽ đối với trách nhiệm xã hội và quốc tế của doanh nghiệp
Cùng với nỗ lực cải thiện chất lượng môi trường kinh tế, Việt Nam không ngừng nâng cao các cam kết đối với thương mại bền vững. Đến nay, Việt Nam đã tham gia 25 Công ước Lao động của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), trong đó có 7/8 Công ước cơ bản (Thương lượng tập thể, Phòng chống Phân biệt đối xử Lao động, Lao động Trẻ em và Cưỡng bức).

Đáng chú ý, Việt Nam cũng là một trong những quốc gia sớm nhất phê chuẩn hai công cụ của ILO về An toàn vệ sinh lao động, dự kiến sẽ được bổ sung vào nhóm các Công ước cơ bản. Việc Việt Nam phê chuẩn gia nhập Công ước số 105 của ILO về xóa bỏ lao động cưỡng bức và đề ra lộ trình phê chuẩn Công ước về quyền tự do hiệp hội và bảo vệ quyền tổ chức (số 87) vào năm 2023 cho thấy sự nghiêm túc và quyết tâm thực hiện các cam kết với EU.
Tại hội nghị về biến đổi khí hậu của LHQ (COP26) ở Glasgow năm ngoái, Việt Nam và EU đã cùng khởi xướng và đưa ra những cam kết cao nhất về bảo vệ môi trường. Cam kết này thể hiện điểm chung của Chính phủ Việt Nam và EU khi đứng trước những thách thức đối với nhân loại và hành tinh, đồng thời xác lập Việt Nam trở thành đối tác tin cậy của Liên minh trên các diễn đàn quốc tế và khu vực. Gần đây, Việt Nam cũng đã trở thành đối tác hàng đầu trong Hiệp định Đối tác Chuyển đổi Năng lượng (JETP) của G7 ở Đông Nam Á.
Nâng cấp quan hệ EU-Việt Nam vì lợi ích song phương và quốc tế
Việt Nam và EU chia sẻ nhiều mục tiêu, mục tiêu và tầm nhìn trong việc duy trì chủ nghĩa đa phương, thúc đẩy bảo vệ môi trường, phát triển xanh và bền vững, đổi mới và chuyển đổi kỹ thuật số. Thúc đẩy hợp tác song phương trong các lĩnh vực đa dạng sẽ hỗ trợ Việt Nam thực hiện các mục tiêu chiến lược và có điều kiện để cải thiện sinh kế của con người, đóng góp vào sự tiến bộ của nhân loại và sự phát triển của thế giới.
Đặc biệt, sau khi đóng góp thành công với tư cách là Thành viên Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 – 2021, Việt Nam hiện đã nhận được sự tin tưởng và ủng hộ của nhiều đối tác, mong muốn Việt Nam đảm bảo và thực hiện thành công vai trò thành viên của Liên hợp quốc về con người. Hội đồng Nhân quyền (UNHRC) nhiệm kỳ 2023 – 2025.
Mặc dù còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng Việt Nam sẵn sàng hợp tác với các quốc gia thành viên để tuân thủ các quy định của Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế và nâng cao hiệu quả của UNHRC thông qua đối thoại, hợp tác và tôn trọng lẫn nhau. Việt Nam sẽ thúc đẩy bình đẳng giới, đặc biệt là đối với phụ nữ và trẻ em gái trong kỷ nguyên chuyển đổi số; tiếp tục đề xuất các quyết định về quyền con người và biến đổi khí hậu với các thành viên của nhóm nòng cốt; và đóng góp vào nỗ lực của UNHRC trong lĩnh vực quyền sức khỏe. Sự hợp tác và hỗ trợ của EU nói chung và các nước thành viên EU nói riêng được kỳ vọng và đánh giá cao.
(Theo Brussels Times)